Đạo và Đời

Lời Phật Dạy

Wednesday, 07/10/2015 - 07:39:26

Nên khi từ bỏ khổ hạnh, 49 ngày đêm dưới cội bồ-đề, Ngài đã dựa trên kinh nghiệm Sơ thiền, từng bước chứng đạt Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, và từ đây phát huy thiền quán cao độ chứng đắc Tam Minh, thành Vô Thượng Giác. Tư duy lực chính là năng lực thiền quán vô ngã, loại trừ mười kiết sử để lần lượt chứng đắc bốn Thánh quả và đạt Niết-bàn tối hậu.

HAI NĂNG LỰC ĐỂ THÀNH ĐẠO

Quảng Tánh

Sau khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, sa môn Cồ Đàm đi đến Khổ Hạnh Lâm trải qua 6 năm khổ hạnh; rồi sau đó là 49 ngày đêm thiền định dưới cội bồ-đề, trở thành bậc Giác Ngộ. Tìm hiểu quá trình thành đạo của Phật, chúng ta sẽ thấy rõ tầm quan trọng của nhẫn lực và tư duy lực.
Nhìn về con đường tu tập đã đi qua, Thế Tôn đúc kết thành kinh nghiệm quý giá:

“Có hai lực này. Thế nào là hai lực? Nghĩa là nhẫn lực và tư duy lực. Nếu Ta không có hai lực này trọn chẳng thành Vô Thượng Chánh Chân Chánh Đẳng Giác”. Người hậu học có thể xem đây là bí quyết để thành công trên đường đạo.

“Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-Đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các tỳ-kheo:
- Có hai lực này. Thế nào là hai lực? Nghĩa là nhẫn lực và tư duy lực. Nếu Ta không có hai lực này trọn chẳng thành Vô Thượng Chánh Chân Chánh Đẳng Giác.

Lại nữa, nếu không có hai lực này, trọn chẳng ở xứ Ưu-lưu-tỳ khổ hạnh sáu năm, lại cũng không thể hàng phục ma oán, thành đạo Vô Thượng Chánh Chân ngồi ở đạo tràng. Vì Ta có sức nhẫn, sức tư duy nên có thể hàng phục chúng ma, thành đạo Vô Thượng Chánh Chân, ngồi tại đạo tràng. Thế nên, các tỳ-kheo, nên tìm phương tiện tu hai lực này: nhẫn lực và tư duy lực; liền thành đạo Tu-đà-hoàn, đạo Tư-đà-hàm, đạo A-na-hàm, đạo A-la-hán, ở Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Hỏa diệt)

Lời của Thế Tôn thật rõ ràng, hai sức mạnh của nhẫn và tư duy chính là điểm mấu chốt giúp Ngài đạt đến đạo quả. Nhẫn lực chính là sức kham nhẫn trước mọi điều không như ý. Thử hình dung một người tu khổ hạnh trong rừng sâu, phải đối diện với đói khát, nóng lạnh, bệnh tật, thú dữ, ma quỷ, lam sơn chướng khí, rừng thiêng nước độc...

Nếu không kham nhẫn thì Ngài không thể vượt qua các chướng ngại, chẳng thể trụ lại được nơi khu rừng Khổ Hạnh ấy để tu hành. Đỉnh cao của kham nhẫn chính là sẵn sàng hy sinh thân mạng, chấp nhận cái chết chứ không bỏ cuộc, không thối thất trước những khó khăn chướng ngại.
Kế đến là tư duy lực, tức năng lực tư duy của thiền quán. Khi học với đạo sĩ Uất-đầu-lam-phất, có thể nói sa-môn Cồ-Đàm đã đạt đến đỉnh cao của Thiền chỉ nhưng Ngài biết rõ rằng, định Phi tưởng Phi phi tưởng xứ tâm tuy có định mà trí chưa sáng. Sau 6 năm khổ hạnh Ngài cũng đã nhận ra đỉnh cao của khổ hạnh là chết, sự khổ hạnh vẫn không giúp Ngài sáng đạo.

Nên khi từ bỏ khổ hạnh, 49 ngày đêm dưới cội bồ-đề, Ngài đã dựa trên kinh nghiệm Sơ thiền, từng bước chứng đạt Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, và từ đây phát huy thiền quán cao độ chứng đắc Tam Minh, thành Vô Thượng Giác. Tư duy lực chính là năng lực thiền quán vô ngã, loại trừ mười kiết sử để lần lượt chứng đắc bốn Thánh quả và đạt Niết-bàn tối hậu.

Ngày nay, chúng ta tu tập theo giáo pháp của Thế Tôn, người tu tuy nhiều nhưng người đạt đạo thì không nhiều, phải chăng chúng ta thiếu sức kham nhẫn và yếu kém năng lực tư duy? Bình tâm để thấy cái sự đời lắm lúc kham nhẫn được trong nghịch cảnh mà lại không thể kham nhẫn dẫn đến chết chìm trong thuận cảnh. Và đôi khi học cao hiểu rộng bên ngoài mà lại không rõ biết chính mình, không trực nhận được vô thường, vô ngã của thân tâm, vạn sự vạn vật. Thế nên, học theo Thế Tôn chúng ta “nên tìm phương tiện tu hai lực này: nhẫn lực và tư duy lực” để có thể dự phần vào Thánh quả, thành tựu giải thoát và an lạc.

-------------------

TƯỚNG MẠO” của NGƯỜI TRÍ

Lẽ thường thì ai cũng nghĩ mình hay, thông minh, tài trí nhất. Hiếm khi mình tự thừa nhận là thiếu thông minh, kém trí tuệ, thậm chí khi sự thật đã rành rành cũng tìm cách đổ lỗi cho người khác hoặc các điều kiện khách quan bên ngoài. Đại để như bao biện rằng việc đường phố ngập lụt thường xuyên hiện nay trên cả nước là do trời mưa quá to, dân xả rác quá nhiều... chứ không phải do thiết kế và thi công kém, chẳng hạn!

Ở đời có nhiều tiêu chuẩn để đánh giá một người là thông minh hay vô trí. Thế Tôn cũng xây dựng tiêu chuẩn cho vấn đề này bằng cách căn cứ vào hai “tướng mạo”. Có điều lạ là Ngài không căn cứ vào học vị cao hay thấp, chuyên môn sâu hay cạn, nói năng hoạt bát hay chậm chạp, làm việc và ứng xử lanh lợi hay vụng về,… để đánh giá người ấy tài trí hay không. Ngài chỉ nói thật đơn giản về người trí là “đối với việc không đáng làm thì không làm, việc làm gần xong không chán bỏ”. Ngược lại, người vô trí thì “đối với việc không đáng làm mà làm, việc làm sắp xong thì chán bỏ”.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các tỳ-kheo:
- Người ngu si có hai thứ tướng mạo. Thế nào là hai? Ở đây, người ngu đối với việc không đáng làm mà làm, việc làm sắp xong thì chán bỏ. Đó là, này các tỳ-kheo, người ngu có hai tướng mạo này.
Lại nữa, tỳ-kheo, người trí có hai tướng mạo. Thế nào là hai? Ở đây, người trí đối với việc không đáng làm thì không làm, việc làm gần xong không chán bỏ.

Thế nên, này các tỳ-kheo, hai tướng mạo của người ngu phải nên xa lìa. Nên nhớ tu hành hai tướng mạo của người trí. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.”
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Hữu vô)

Thế Tôn xác định, người trí là người “đối với việc không đáng làm thì không làm”.“Việc không đáng làm” là việc ác, gây tổn hại cho mình và người, tạo ra khổ đau trong hiện tại và tương lai. Mười điều ác (giết hại, trộm cướp, tà hạnh, nói dối, nói ác, nói chia rẽ, nói nịnh, tham lam, sân hận, si mê) chính là những việc không đáng làm. Như vậy, những ai lập hạnh “không làm các việc ác, chỉ siêng làm việc lành” thì chính là người trí.

Nhận diện rõ “việc không đáng làm” vốn là điều không phải dễ. Nhưng khi nhận diện ra vấn đề rồi, phát huy lý trí và nghị lực để quyết định không làm lại càng khó khăn hơn. Ngay đây, người trí là người vượt qua được chính mình. Trước sự cám dỗ, thôi thúc bởi tham dục, trước sự bùng phát của bão lửa nóng giận, trước sự yếu đuối, mê mờ của tâm trí, ai tự làm chủ và vượt qua được những giới hạn của chính mình mới là người có trí.

Mặt khác, “việc làm gần xong không chán bỏ” là một biểu hiện khác của người có trí. Thế Tôn cũng từng lấy thí dụ “cọ cây lấy lửa” để minh họa cho việc tu hành. Khi lửa chưa bùng cháy thì không dừng việc cọ cây. Nếu dừng lại lúc cây sắp bén lửa thì không bao giờ có được lửa. Mới hay, trong bát chánh đạo, chánh tinh tấn thoạt nhìn rất bình thường nhưng có công năng cực kỳ quan trọng trong việc thăng tiến và chứng đạt đạo quả. Do vậy, không làm điều ác; không chán nản, không bỏ cuộc, kiên trì và nhẫn nại quyết làm xong việc lành mới thôi; chính là hai “tướng mạo” của người trí.


Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT