Sức Khỏe

Thay đổi lối sống: cách điều trị mới cho bệnh Alzheimer"s (tiếp theo)

Friday, 07/12/2018 - 08:18:51

Đến năm 2013, các xét nghiệm cho thấy sự suy giảm của ông tăng nhanh, và bác sĩ tâm thần của ông đã gợi ý ông ngưng việc kinh doanh của mình. Doanh nhân đã gặp Bredesen, người đã sử dụng dữ liệu từ các thử nghiệm đánh giá của ông và đưa ra một kế hoạch cá nhân mà doanh nhân đã thực hành một cách chăm chỉ.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Cách thức của Bredesen Protocol được thiết kế như một chương trình được cá nhân hoá toàn diện nhằm đảo ngược các nguyên nhân sinh học của sự suy giảm nhận thức và bệnh Alzheimer's sớm. Bredesen tin rằng bệnh Alzheimer's không chỉ là một bệnh mà là ba loại bệnh khác nhau được thúc đẩy bởi các quá trình sinh học khác nhau, và mỗi loại đòi hỏi một bản đồ điều trị cá nhân. Loại 1 có liên quan đến viêm toàn thân. Viêm không có trong loại 2, nhưng có các dấu hiệu của sự trao đổi chất bất thường, bao gồm kháng insulin và mức độ cực kỳ thấp của một số loại vitamin và hormone nhất định.

Loại 3 cho thấy một loại teo não đặc biệt, được nhìn thấy trên MRI, và thường xảy ra ở những người trẻ tuổi không có tiền sử gia đình mắc bệnh Alzheimer. Loại 3 có thể liên quan đến việc tiếp xúc lâu ngày với các độc tố môi trường, chẳng hạn như một số kim loại và nấm mốc, nhưng nghiên cứu hiện tại vẫn chưa kết luận.
Bước đầu tiên là trải qua những gì Bredesen gọi là “cognoscopy”, là sự kết hợp của các xét nghiệm máu, đánh giá di truyền, đánh giá nhận thức và MRI, đo lường khối lượng não để xác định các khu vực co rút. Việc đánh giá được thiết kế để xác định các cơ chế cơ bản mà Bredesen tin là nguyên nhân gốc đằng sau sự suy giảm nhận thức.

Các kết quả sau đó được đưa vào máy tính để đưa ra một kế hoạch dựa trên sự thiếu hụt đặc biệt của mỗi người và di truyền. Thông thường, mỗi kế hoạch bao gồm một số yếu tố quan trọng để đảo ngược tình trạng viêm, kháng insulin và sự phá hủy các cấu trúc não quan trọng. Chúng bao gồm:
Tối ưu hóa giấc ngủ và ngủ ít nhất 8 giờ mỗi đêm

Nhịn đói ít nhất 12 giờ một ngày; bệnh nhân thường không ăn bất cứ thứ gì sau 7 giờ tối cho đến sáng hôm sau

Các buổi tập yoga và thiền định thường xuyên để giảm bớt các căng thẳng
Tập thể dục aerobic từ 30 đến 60 phút, ít nhất năm lần một tuần
Tập luyện não trong 30 phút, ba lần một tuần
Ăn chủ yếu là thực vật: bông cải xanh, súp lơ, mầm Brussels, rau lá xanh (cải xoăn, rau bina, rau diếp)
Giảm ăn các loại cá có mức thủy ngân cao: cá ngừ, cá mập và cá kiếm Uống nhiều nước
Loại bỏ gluten và đường. Giảm ăn carbs đơn giản (bánh mì, mì ống, gạo, bánh quy, bánh ngọt, kẹo, nước sô-đa).

Gửi đi một tín hiệu

Việc chữa bệnh Alzheimer's từ lâu là một thách thức bởi vì, cho đến nay, có rất ít tiến bộ có ý nghĩa đã được thực hiện. Các nhà thần kinh học ở tuyến đầu cảm thấy bất lực quan sát bệnh nhân của họ biến mất vào hố sâu của sự quên lãng. Các hãng dược phẩm lớn tập trung vào một loại thuốc chống amyloid, và hàng tỷ tiền tài trợ đi kèm với nó, phần lớn đã làm lu mờ một câu chuyện khác hẳn đã nổi lên từ các nghiên cứu độc lập trong thập niên qua: chẳng hạn như lối sống ít vận động của chúng ta, thói quen ăn uống xấu, bệnh tiểu đường loại 2, sự kháng insulin và béo phì tăng vọt, đóng một vai trò rất lớn.

“Nhưng bạn không thể đóng gói hoặc đóng nhãn một lối sống,” Galvin quan sát một cách khô khốc. Trong khoảnh khắc đen tối nhất của mình, Galvin tự hỏi liệu ông có làm được gì cho bất cứ ai không. Ông có rất ít vũ khí trong kho vũ khí trị liệu của mình - chỉ một số ít thuốc không ích lợi mấy được phê duyệt nhiều thập niên trước, có thể tạm thời tăng cường sự suy nghĩ và sinh hoạt.

Các nghiên cứu liên hệ giữa bệnh Alzheimer's với một loạt các yếu tố lối sống có thể thay đổi đã khiến ông phải thay đổi nhỏ trong sự hành nghề của mình, và ông bắt đầu điều trị tích cực hơn các tình trạng sức khỏe góp phần gây bệnh. Ông kê toa thuốc để giảm huyết áp của bệnh nhân, statin để kiểm soát cholesterol, hoặc đề nghị chương trình tập thể dục hoặc thay đổi cách ăn để giảm bớt sức đề kháng insulin và cải thiện sức khỏe của não. "Tôi bắt đầu thấy rằng bệnh của các thân chủ của tôi dường như tiến triển chậm hơn nhiều so với đồng nghiệp của tôi, và gia đình họ nói với tôi những điều tương tự", Galvin nhớ lại.
Tại trường Đại Học Alabama ở Birmingham, Geldmacher cho mỗi bệnh nhân một bản đánh giá các yếu tố nguy cơ chi tiết bao gồm lịch sử gia đình, kết quả thử nghiệm tâm trí và kết quả MRI. Geldmacher nói: “Bằng cách kiểm soát được những yếu tố nguy cơ, mọi người có thể duy trì sức khỏe của mình bằng cách tập thể dục, tìm những kích thích tâm trí và ăn uống lành mạnh. Ba điều đó có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh hoặc làm chậm lại."

Richard Isaacson, người sáng lập và giám đốc Phòng Khám Phòng Ngừa Bệnh Alzheimer tại New York Presbyterian Weill Cornell Medical Center, dành hàng giờ với mỗi bệnh nhân để làm những phân tích sức khỏe toàn diện. Ông sử dụng các xét nghiệm nhận thức, đo lường cơ thể và đánh giá sức khỏe não, cũng như thử nghiệm và chụp hình (MRI hoặc PET scan) để xác định các yếu tố làm dễ bị bệnh Alzheimer's. Isaacson là người được truyền cảm hứng để thực hiện công việc này sau khi chứng kiến bốn thành viên gia đình chết vì bệnh này, nói: "Chúng tôi nhìn vào di truyền học, xem xét cholesterol, xem xét sự trao đổi chất glucose, xem xét chất béo cơ thể."

Dựa trên các yếu tố nguy cơ của họ, bệnh nhân được cho toa để thực hành một chương trình tập thể dục, phương pháp để giảm căng thẳng và ngủ nhiều hơn, thuốc có toa và không toa, và thậm chí thuốc bổ để bù đắp cho thiếu hụt của họ. Ở những người thực sự theo đúng chương trình, Isaacson cho biết nghiên cứu ban đầu cho thấy chức năng nhận thức được cải thiện trong các lĩnh vực quan trọng như chức năng điều hành và tốc độ nhận thức, hoặc thông tin được hấp thụ nhanh. “Nói theo trực giác, chúng tôi nghĩ những cách này có hiệu quả,” Isaacson nói. “Nhưng bây giờ chúng ta đã thực sự có bằng chứng.”

Trong khi các bằng chứng vẫn còn sơ sài, những trường hợp cá nhân này đã đạt tới con số quan trọng, cho thấy một điều gì đó đang xảy ra cần phải được tìm hiểu một cách nghiêm ngặt hơn. Vào tháng Chín, gần một tá bác sĩ - từ Puerto Rico, Kansas City, Alabama và New York - đã gặp nhau ở Chicago để chia sẻ những gì họ đã học, những gì dường như hiệu quả và những gì không, và bắt đầu quá trình gian khổ để tìm ra cách tốt nhất để đưa ra một nền tảng điều trị có thể được sử dụng ở mọi nơi. "Chúng tôi đang cố gắng đặt nền tảng cho việc phòng ngừa bệnh Alzheimer's và tìm ra những công cụ chúng ta nên sử dụng và những gì hiệu quả nhất", Isaacson nói.

Chẩn đoán bệnh Alzheimer có thể rất khó khăn

Bệnh Alzheimer's khó chẩn đoán vì nó có cùng nhiều triệu chứng với những chứng lão hóa khác như đột quỵ, khối u, rối loạn giấc ngủ, bệnh Parkinson và các dạng chứng mất trí khác. Ngay cả tác dụng phụ của một số loại thuốc cũng có thể giống các dấu hiệu của bệnh. Cho đến bây giờ, chẩn đoán dựa trên quan sát các triệu chứng như quên lãng, suy nghĩ mờ ảo, lú lẫn, khó tập trung, hoặc thay đổi hành vi, tính cách và khả năng hoạt động bình thường. Ngoài ra, các đánh giá tâm thần xem xét các yếu tố như mọi người có thể hấp thu các thông tin nhanh cỡ nào, giải quyết vấn đề hoặc nhớ các từ ngữ.

Các xét nghiệm y tế tiêu chuẩn khác, chẳng hạn như xét nghiệm máu và nước tiểu, có thể phát hiện các nguyên nhân tiềm ẩn khác của vấn đề. Nhờ những tiến bộ trong một loại kỹ thuật chụp ảnh não như PET, các nhà khoa học có thể, trong một môi trường nghiên cứu, xác định những gì họ tin là một trong những dấu hiệu sinh học của bệnh Alzheimer: mảng amyloid. Một sự đổi mới khác của PET, hiện đang được phát triển, có thể phát hiện được "protein tau bất thường", được cho là một dấu hiệu khác của Alzheimer's.
Nhưng ngay cả với các thử nghiệm tốt hơn, một chẩn đoán chính xác có thể vẫn còn khó. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các triệu chứng của bệnh Alzheimer's và sự hiện diện của amyloid và tau không nhất thiết phải đi đôi với nhau. Vào năm 2011, một nhà nghiên cứu đã thực hiện các khám nghiệm sau khi chết của 426 cư dân người Mỹ gốc Nhật ở Hawaii, mà khoảng một nửa trong số đó đã được chẩn đoán mắc một số chứng mất trí, điển hình là bệnh Alzheimer's. Theo các cuộc khám nghiệm tử thi, khoảng một nửa nhóm đó đã bị chẩn đoán nhầm là mắc bệnh Alzheimer's - não của họ không có bằng chứng về tổn thương não điển hình của căn bệnh này.

Tại một hội nghị năm 2016, các nhà khoa học Canada đã trình bày những phát hiện sơ bộ, dựa trên hơn 1.000 cá nhân, rằng bệnh nhân được chẩn đoán chính xác chỉ 78%. Trong gần 11 phần trăm các trường hợp, bệnh nhân được cho rằng có bệnh Alzheimer's thực sự không có, trong khi 11% khác mắc bệnh nhưng không được chẩn đoán. Các nhà khoa học hiện đang nghiên cứu một số dấu hiệu bệnh, chẳng hạn như gene hoặc các mảnh vụn liên quan tới bệnh hoặc các protein bất thường trong dịch não tủy hoặc máu, có thể chẩn đoán bệnh Alzheimer's một cách đáng tin cậy và chính xác hơn.

Suy nghĩ tìm cách chữa

Trong khi chờ đợi, Bredesen, giáo sư thần kinh UCLA, đã đi khắp đất nước, quảng bá chương trình của mình qua cuốn sách bán chạy của ông, The End of Alzheimer's, giảng bài tại các hội nghị khoa học và nói chuyện với các nhóm cộng đồng. Tuy nhiên, cách chữa bệnh gây nhiều tranh cãi của ông cũng đang bị chê trách. Keith Fargo, giám đốc các chương trình khoa học của Hiệp hội Alzheimer's cho biết: “Bạn không muốn những người dễ bị tổn thương chi tiền vào một thứ chưa được chứng minh là hiệu quả hoặc an toàn”.
Nhưng nhiều người theo chương trình của ông dường như được hưởng lợi. Trong khi câu chuyện của họ là giai thoại và các chi tiết khác nhau, có một số điều giống nhau, một số lớn nói về tìm lại những mảnh đời của mình mà họ nghĩ đã biến mất mãi mãi.

- Giám đốc của một cơ quan phi lợi nhuận ở tuổi trung niên sống gần Chicago nhận thấy cô đã trở nên quên lãng và kinh hoàng khi biết rằng cô mang hai bản sao của biến thể gen ApoE4, có nghĩa là cô ấy có cơ hội cao phát triển bệnh Alzheimer. Ở tuổi 56, triệu chứng của cô đã giảm xuống sau một chương trình ăn kiêng nghiêm ngặt, tập thể dục và một loạt thuốc bổ.

- Một luật sư ở East Coast chỉ mới 40 tuổi khi cảm nhận mình đang bị kéo vào vùng đất của bệnh Alzheimer's. Cha cô đã bị mắc bệnh, cũng như bà của cô. Trong vòng một thập niên, suy nghĩ của cô trở nên mờ mịt, và cô mất cả các từ ngữ và các thứ tiếng ngoại quốc mà cô đã từng nói được, như tiếng Trung và tiếng Nga. Sau sáu tháng tuân theo chương trình của Bredesen, óc cô trở thành sáng sủa lại, và trong vòng hai năm, cô ấy lại có thể nói tiếng nước ngoài thành thạo một lần nữa.

- Câu chuyện về một doanh nhân thành công đặc biệt quan trọng vì sự suy giảm của ông đã được ghi nhận đầy đủ. Ông đã được làm PET scan và xét nghiệm thần kinh tâm lý vài năm một lần, bắt đầu từ năm 2003. Các xét nghiệm hình ảnh cho thấy mô hình của giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer's, và sau đó, ông biết được mình mang biến thể gene bệnh Alzheimer's. Nhiều năm trôi qua, bạn bè và đồng nghiệp nhận thấy sự suy giảm nhận thức của ông.

Đến năm 2013, các xét nghiệm cho thấy sự suy giảm của ông tăng nhanh, và bác sĩ tâm thần của ông đã gợi ý ông ngưng việc kinh doanh của mình. Doanh nhân đã gặp Bredesen, người đã sử dụng dữ liệu từ các thử nghiệm đánh giá của ông và đưa ra một kế hoạch cá nhân mà doanh nhân đã thực hành một cách chăm chỉ.

Hai năm sau, một loạt các xét nghiệm thần kinh khác cho thấy điểm số của ông đã được tăng lên. Việc học nói và trí nhớ cũng như trí nhớ thính giác của ông đã tăng từ không đạt tiêu chuẩn đến bình thường. BS thần kinh của ông chưa từng thấy bất cứ ai có được sự phục hồi như của ông trong 30 năm hành nghề của mình.
Những cách tiếp cận này cung cấp hy vọng cho hàng triệu người có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer's và gia đình của họ. Trong tương lai gần, các bác sĩ này tin rằng bệnh Alzheimer có thể trở thành một bệnh kinh niên có thể kiểm soát được, giống như bệnh tiểu đường hoặc bệnh tim. Giống như những căn bệnh đe dọa tính mạng này, nếu bệnh Alzheimer's không được kiểm soát, nó có thể gây suy nhược nghiêm trọng và nguy hiểm. Nhưng điều trị thích hợp và thay đổi lối sống có thể ngăn chặn các triệu chứng trong nhiều năm, cho phép mọi người sống vui và hiệu quả hơn.

“Bệnh Alzheimer là một căn bệnh về cuộc sống, có nghĩa là sức khỏe nhận thức bắt đầu trong tử cung và bị ảnh hưởng bởi những gì chúng ta làm trong suốt cuộc đời của chúng ta,” Isaacson nói. “Bằng cách chữa những bệnh căn bản, chúng ta có thể có tác động tích cực đến sức khỏe của não, giảm nguy cơ và thậm chí ngăn ngừa được bệnh."

 

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT