Người Việt Khắp Nơi

Định mệnh

Sunday, 03/11/2019 - 08:15:29

Đau đớn hơn, linh mục Đặng Hữu Nam nói với phóng viên, “cha mẹ của Trà My ở quê nhà cũng không thở được.” Không thở được vì bất công tràn lan, khí trời bị ô nhiễm vì nhà máy xả khói độc mù mịt, vì hải sản bị nhiễm độc do nhà máy Formosa xả thải nước độc hại ra biển.


Chín trong số 39 nạn nhân từ Việt Nam trong chuyến xe định mệnh kết thúc ngày 23 tháng 10, 2019 tại Essex, Anh.

Bài SƠN NGHỊ

Maurice Robinson, tài xế xe vận tải chuyên chở hàng, lái xe từ cảng Purfleet, tỉnh Essex nước Anh, lúc 12:30 khuya ngày thứ Tư, 23/10 đến Waterglade thuộc tỉnh Grays thì dừng lại để kiểm giấy tờ. Mở cửa thùng container để kiểm hàng Maurice thấy một cảnh tượng thật hãi hùng: xác người chết đông cứng. Các thùng containers chứa tổng cộng 39 xác người, 31 đàn ông và 8 phụ nữ, trong đó có một cô gái tuổi vị thành niên.
Không ai ngờ chuyến xe chở hàng là mồ chôn 39 người di dân lậu.

Những thùng hàng nặng nằm trên phà rong ruổi từ cảng Zeebrugge (Bỉ) đến cảng Purfleet (Anh) chuyên chở những con người ra đi với ước mơ nhỏ nhoi sẽ kiếm được việc làm để trả nợ, để giúp gia đình, để nuôi con cái. Bàng hoàng hơn, trong số 30 nạn nhân nhà chức trách Anh đã xác định danh tính của 25 nạn nhân là người Việt, trong số đó gồm có Nguyễn Đình Lượng (20 tuổi), Hoàng Văn Tiệp, Phạm Thị Trà My (26 tuổi), Nguyễn Đình Tú, Võ Ngọc Nam (28 tuổi), và Hùng Nguyễn (33 tuổi). VietHome, một tổ chức vô vị lợi, cộng tác với cơ quan điều tra gửi dấu tay và hình ảnh về quê nhà để xác định danh tính các nạn nhân còn lại.
Ngay khi tin tức được loan báo trên mạng, những gia đình thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã thấp thỏm, lo âu số phận của những người thân. Họ biết con cái, thân nhân đã khởi hành chặng đường nguy hiểm dài trên 6 ngàn dặm để bắt đầu một cuộc sống mới không kém gian truân.

Cha Antôn Đặng Hữu Nam, thuộc một linh mục Công giáo luôn đi đầu trong vụ khiếu kiện đòi tập đoàn Formosa bồi thường cho các nạn nhân do thảm họa môi trường ở Vũng Áng, khi biết tin đã khuyến khích những gia đình nạn nhân cần phải lên tiếng. Họ kể lể sự tình và ngài cho biết số người ra đi tìm cuộc sống mới lên đến 100 chứ không phải 39.

Như thế 61 người kia hiện đang lưu lạc ở đâu đó trên nước Anh, hoặc chết dọc đường, hoặc đem nhốt vào những vùng làng mạc xa xôi để chăm sóc vườn cần sa, hoặc bị bán vào các nhà thổ. Nguy hiểm, rủi ro, chết chóc rình rập suốt dọc đường, từ lúc từ giã gia đình cho lúc đến nơi. Đến nơi vẫn chưa xong, phải kiếm được việc làm - thường rẻ mạt - để dành dụm gửi về trả nợ, để nuôi cha mẹ già yếu, nuôi con cái còn thơ dại. Nợ nần không nhỏ. Nguyễn Thị Nhung, 19 tuổi, một trong 39 nạn nhân, phải trả 10 ngàn USD để đi lậu đến nước Anh làm việc trong một tiệm móng tay, một người bà con ở quê nhà cho biết.

Căn cứ vào hải trình và lộ trình, nhà chức trách Anh đang phác họa đường dây đi từ Hà Tĩnh, qua Trung Cộng, bay đi Pháp, đến Bá Linh, rồi Bỉ, và điểm đến cuối lộ trình là Anh quốc. Tiền rải dọc đường, mà bọn đầu mối trung gian luôn lấy trước, lên đến 30 ngàn bảng Anh, khoảng 39 ngàn USD. Một gia tài lớn đối với những gia đình nông dân, ngư phủ ở vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh.

Cầm trong tay một số tiền gần 40 ngàn USD, tương đương 874 triệu, mà gia đình vẫn không an tâm về cuộc sống tương lai. Họ sẵn sàng mất từng ấy tiền, cộng thêm những rủi ro chết chóc dọc đường để ra đi tìm một cuộc sống mới. Những nạn nhân này xuất thân từ vùng đã bị nước thải ô nhiễm từ nhà máy gang thép Formosa. Nghề nghiệp cha truyền con nối của gia đình họ là chài lưới, bắt hải sản để nuôi thân. Vùng biển bị ô nhiễm từ mấy năm qua khiến nhiều người phải bỏ xứ để tha phương cầu thực.
Việc làm trong nước vốn đã khó kiếm, thôi thì bỏ ra một số tiền để đi kiếm sống ở nước ngoài, hy vọng mỗi tháng dành dụm được vài trăm đôla gửi về nuôi sống gia đình. Hy vọng đã tan thành mây khói khi bị nhốt vào những thùng sắt kín mít, và nhiệt độ bên trong tụt xuống -25 độ C, nhằm tránh tai mắt của những cơ quan chức năng qua những dụng cụ tân tiến tìm khí carbon từ hơi thở, tìm thân nhiệt từ cơ thể, và đàn chó nghiệp vụ khứu giác nhạy bén khôn lường.

Không ai có thể sống sót ở độ lạnh này, chưa kể dưỡng khí cạn dần trong lộ trình dài đăng đẵng. Nhà chức trách cho biết những nạn nhân đã chết ít nhất được 10 tiếng, nghĩa là lúc nằm chờ phà ở cảng Zeebrugge trên đất Bỉ, những thùng containers này đã là mồ chôn những xác người. Maurice Robinson chở những xác người chết cóng đi rong trên đất Anh.

Dân Việt trải qua vài cuộc di cư lớn trong lịch sử. Hơn 1 triệu người di cư vào Nam năm 1954 khi hiệp định Genève chia đôi đất nước. Đây là cuộc di cư tìm tự do, hay nói rõ hơn, đi lánh nạn cộng sản. Năm 1975, cộng sản may mắn thôn tính được miền Nam. Lại 1 triệu người bỏ xứ ra đi, cũng vì hai chữ tự do. Họ phải liều thân đi thẳng ra biển vì cuối Nam không còn đất để trốn, cho dù cuối mũi Cà-mau là biển, là giông bão, là hải tặc.

Cuộc Nam tiến mở rộng bờ cõi xuống phía nam bắt đầu từ thế kỷ 15, thời Hồ Quý Ly và Lê Thánh Tông, và từ ngàn đời người Việt ở trên đất Việt qua bao nhiêu thế hệ. Họ bám lấy ruộng nương, rừng núi, sông rạch để sinh sống. Làng mạc, xóm giềng, con trâu, lũy tre... bao bọc cuộc sống tuy nghèo nhưng đầy tình nghĩa. Họ chưa từng nghĩ đến chuyện rời bỏ nơi chốn cũ. Thế mà họ đành bỏ nơi chôn nhau cắt rún, ùn ùn kéo ra biển để đi, để đâm vào những cơn bão kinh hoàng, để rơi vào tay bọn hải tặc Thái hung dữ, và để chìm thân xác vào đáy biển sâu. Lần này, vào thế kỷ 21, vẫn còn rất nhiều người tìm cách ra đi. Người nghèo khổ cố dành dụm tiền để đi đã đành, ngay cả kẻ có tiền cũng kiếm cách đi, quan chức có quyền cũng chuẩn bị sẵn để khi hết quyền là đi.

Cả nước Việt Nam như một quán trọ khổng lồ. Khách đến trả tiền để ở lại một thời gian nhất định nào đó. Và hết hạn cư ngụ là bỏ đi, bỏ luôn cả quán trọ bề ngoài sơn phết trông hào nhoáng nhưng bên trong đã rã rệu như cơn bệnh trầm kha ở thời kỳ cuối, như một mạng người đang hấp hối. Một đất nước khốn khổ đến thế là cùng.

Đầu năm 2000, đạo diễn việt cộng Trần Văn Thủy được Trung Tâm William Joiner thuộc Đại Học Massachusetts Boston cho “phân” để thực hiện một cuộc nghiên cứu về cộng đồng người Việt hải ngoại. Sau ba năm nghiên cứu, phỏng vấn các nhà văn tên tuổi một thời trước 75, nhà đạo diễn việt cộng Trần Văn Thủy cho ấn hành cuốn sách “Nếu Đi Hết Biển.” Ở chương đầu, ông Thủy viết đôi dòng phi lộ, đại khái là hồi nhỏ, thằng bé Thủy hỏi bà vú rằng nếu đi từ làng mình, đi mãi, qua sông, qua núi, qua phố xá… rồi đi đến đâu? Bà vú trả lời sẽ đi đến biển. Thằng bé hỏi tiếp, nếu đi hết biển thì sẽ đến đâu? Bà vú không biết. Câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu thằng bé, và mãi mấy mươi năm sau, ông Thủy hiểu rằng, “nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình.”

Bỏ qua chuyện chậm hiểu của ông Thủy, vì mãi mấy mươi năm sau ông mới hiểu được là quả đất tròn - nếu cứ đi mãi thì người ta sẽ quay về điểm khởi hành - trong khi thuyết quả đất tròn hiện hữu từ thời cổ Hy lạp, và học sinh thời VNCH cũng biết từ những năm trung học Đệ Nhất cấp, để bàn đến chuyện “nếu đi hết biển.” Ông Thuỷ viết thêm, “…nhưng tôi biết rất rõ không ít người Việt xa xứ qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi mà cuối cùng không thể trở về quê mình, làng mình được.”

Nhận định của ông Thủy từ năm 2003, nhưng đã đúng với hơn một triệu người vượt biển bằng thuyền, và bây giờ lại đúng với rất nhiều người đang sống ở quê nhà. Sự thật còn tệ hơn lời ông đạo diễn việt cộng Trần Văn Thủy nói, là một khi đã ra đi, không phải là “họ không thể trở về…” mà họ chẳng màng quay về quê mình, làng mình nữa. Số người này rất nhiều, khoảng hơn 90 triệu người ở Việt Nam, kể cả đảng viên.
Vì lẽ hơn một nửa số người vượt biển đã chìm sâu dưới đáy biển nên không thể trở về quê mình, làng mình được nữa. Vì lẽ những nạn nhân đã chết cóng trong những chiếc thùng hàng kể trên cũng chẳng thể nào trở về quê mình, làng mình, ngoại trừ người thân bỏ tiền đưa xác về chôn cất. Còn nếu thành công, nghĩa là có một cuộc sống ổn định ở xứ người, thì chắc chắn họ chẳng hề nghĩ đến chuyện trở về mảnh đất khốn khổ đó, nơi mà bất công nhan nhản, nơi mà lương tri, lương tâm, lương thiện khó tìm thấy, nơi mà thức ăn, khí trời đầy dẫy độc hại.
Đất nước Việt Nam quả thật không có tương lai, vì tương lai của những người dân luôn ở xứ người. Tùy vào niềm tin của mỗi người, xin cầu nguyện với đấng Tối Cao, thương xót những kẻ đáng thương này. Vì không gì đáng thương hơn, khi gửi những lời từ biệt cha mẹ trước khi thân thể lạnh cóng và máu động dặc dần với độ lạnh -25 độ C, như Trà Mỹ đã làm. “Con xin lỗi bố mẹ nhiều… con thương bố mẹ nhiều… con chết vì không thở được.”
Đau đớn hơn, linh mục Đặng Hữu Nam nói với phóng viên, “cha mẹ của Trà My ở quê nhà cũng không thở được.” Không thở được vì bất công tràn lan, khí trời bị ô nhiễm vì nhà máy xả khói độc mù mịt, vì hải sản bị nhiễm độc do nhà máy Formosa xả thải nước độc hại ra biển.
Xin thắp lên một nén nhang để thương tiếc cho số phận 39 kẻ xấu số, như dân chúng vùng Essex cầm trong tay ngọn nến tưởng niệm những nạn nhân. Xin tiễn biệt 39 thân phận kém may mắn về chốn vĩnh hằng, như các cảnh sát tỉnh Essex đứng nghiêm trang cúi đầu khi chiếc xe hàng chở 39 xác người đến nhà xác.
Nếu không muốn ra đi, nếu không muốn chết cóng trên những chuyến xe hàng, nếu không muốn làm nô công ở xứ người, nếu không muốn bị bán vào các nhà thổ, nếu không muốn chết rơi rớt dọc đường, nếu muốn sống thanh bình quanh lũy tre làng bao bọc xóm làng, thì đã đến lúc người dân Việt phải quyết tâm hành động để thoát khỏi ách cộng sản bạo tàn.
Muộn lắm rồi!
1.11.2019
(Trích Dân Làm Báo)

 

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT